Theo Hồn Việt, ngày 25-08-2011
Mai Thế Phú
Mai Thế Phú
Cuộc thi được tổ chức cách nay nửa thế kỷ, vào ngày 20-2-1955 tại rạp Lido, rạp lớn nhất Sài Gòn - Chợ Lớn hồi đó, có sức chứa cả ngàn người, đã đưa một nhà báo trẻ có bút danh Thu Trang trở thành hoa hậu. Có nhiều chuyện thú vị về người đẹp Thu Trang, sau này trở thành nhà sử học nổi tiếng, hiện sống tại Pháp.
Cuộc thi hoa hậu này có hơn 30 thí sinh trong buổi thi chính thức là những người đẹp đã lọt qua vòng sơ tuyển qua hồ sơ lý lịch và ảnh gửi trước cho ban tổ chức. Không có phần thi áo tắm nhưng vẫn hấp dẫn. Nội dung cuộc thi không có phần mặc áo tắm nhưng bộ phận chuyên môn của ban giám khảo có đo các chỉ số chiều cao, thể trọng và số đo ba vòng. Sau này, khi nhớ lại, những người đẹp dự thi hoa hậu năm ấy kể rằng nếu cuộc thi bắt buộc phải mặc áo tắm thì chắc chẳng ai dám thi, kể cả những cô vẫn thường mặc đồ tắm đi bãi biển nhiều lần rồi.
Đây là lần đầu tiên Sài Gòn có cuộc thi sắc đẹp do Bộ Thông tin và Bộ Xã hội, chính quyền miền Nam tổ chức nhân dịp lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng. Ban tổ chức bao gồm cả một số nhân sĩ và nhà báo. Số tiền bán vé vào cửa được thông báo là ủng hộ Ủy ban Chẩn tế Xã hội, một cơ quan từ thiện hồi đó.
Kết quả cuộc thi: Á hậu thứ hai là sinh viên Ngô Yên Thu, người Cần Thơ; thứ nhất là Nguyễn Thị Ninh, sinh viên người Hà Nội mới vào Nam. Người vinh dự nhận vòng nguyệt quế là nhà báo Thu Trang, 23 tuổi, cao 1,61 m, nặng 53 kg, số đo ba vòng 86-62-88. Xin nhớ lại, ở thập niên 1950, ngay các ngôi sao điện ảnh và người đẹp nổi tiếng trên thế giới cũng vẫn còn có chiều cao vừa phải, chỉ 1,6 m hoặc hơn một chút (như Elizabeth Taylor, Audrey Hepburn, Odile Versois...).
Khi tên hoa hậu được tuyên đọc, hội trường vang dậy tiếng vỗ tay, sân khấu tràn ngập mấy chục nhiếp ảnh gia, quay phim và nhà báo. Ca sĩ đang rất nổi tiếng dạo đó là Tâm Vấn cũng đại diện khán giả nữ lên sân khấu chúc mừng. Ra khỏi rạp Lido, sau khi thỏa mãn rừng người xin chữ ký và xin chụp ảnh chung, hoa hậu được mời lên xe hơi mui trần màu xanh bóng loáng nước sơn mới để đi diễu hành trong khoảng hai tiếng đồng hồ qua các đường phố chính của TP.
Hoa hậu Thu Trang là ai?
Sau ngày 30-4-1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thu hồi tòa Đại sứ Sài Gòn tại Paris. Đại sứ Phạm Văn Ba đọc được trong hồ sơ giấy tờ có ghi: Công Thị Nghĩa tức nữ diễn viên màn bạc Thu Trang là Việt Minh, Việt Cộng nằm vùng...
Vâng, Thu Trang là bút danh chính (cùng các bút danh khác như Thanh Tâm, Nguyễn Huyền Thu...) của nhà báo Công Thị Nghĩa khi chị bắt đầu viết bài trên tờ Cần Học đầu năm 1954 và sau đó trên các báo Sài Gòn Mới, Tân Văn, viết truyện ngắn trên Phụ nữ Diễn đàn, viết feuilleton (truyện nhiều kỳ) trên Lẽ Sống... Còn “diễn viên màn bạc” là do trong hai năm 1956 và 1957, Thu Trang tham gia diễn xuất hai phim của nền điện ảnh non trẻ, trong đó ở phim Lục Vân Tiên, ngoài việc đảm nhận vai nữ chính Kiều Nguyệt Nga, chị còn lãnh việc lồng tiếng cho tất cả các vai nữ trong phim (vì thâu tiếng tại Nhật, không có kinh phí cho nhiều người đi). Đây là phim truyện màu đầu tiên của Việt Nam, cũng là phim VN đầu tiên tham dự Đại hội Điện ảnh châu Á tại Tokyo.
Nhưng tại sao Thu Trang lại là Việt Minh, Việt Cộng, hơn nữa lại được ghi trong hồ sơ của sứ quán chính quyền Sài Gòn tại Pháp? Xin được tóm lược chuyện dài đó như sau:
Từ năm 1950-1951, trưởng thành từ phong trào học sinh sinh viên, Công Thị Nghĩa đã ở trong tổ công tác của Ban Tình báo đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định gồm bốn người do anh Năm Tú Trần Thanh Vân làm tổ trưởng, anh Hai Tắc Trần Kim Lang (hai anh là cán bộ chủ chốt ở TP.HCM sau ngày giải phóng) và liên lạc viên là chị Tư Ngà. Nghĩa trẻ nhất trong bốn người nên được mang bí danh là Tư (tên thật và theo thứ tự trong gia đình là Ba Nghĩa).
Thời gian đó, nhiều lần Nghĩa bí mật theo liên lạc viên lên vùng Bến Cát, Tân Uyên dự huấn luyện về công tác nội thành. Giữa năm 1952, Nghĩa bị bắt, bị tra tấn ở bót Catinat, và bị giam chung với nhiều chính trị phạm (trong đó có các đồng chí Nguyễn Thị Châu Sa tức Nguyễn Thị Bình và Đỗ Duy Liên) ở khám Gia Định và khám lớn Sài Gòn. Nhờ sự bào chữa và can thiệp của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Công Thị Nghĩa được ra tù cuối năm 1953.
Trên đất Pháp
Năm 1960, với tư cách diễn viên điện ảnh, Thu Trang được Chánh văn phòng Bộ Thông tin chính quyền Sài Gòn giới thiệu làm việc với đoàn công tác của Đài Truyền hình Pháp và được họ mời sang Pháp tham gia diễn xuất trong một bộ phim dài đã có dự án cụ thể. Đầu tháng 11-1960, chị lên máy bay Air France qua Pháp trong tâm trạng ngổn ngang trăm bề Quê cha đất mẹ tôi ơi/ Giã từ tất cả quê người tôi đi/ Còn bao nhiêu độ xuân về?/ Có còn chăng chút đam mê tuổi vàng? (thơ Thu Trang, 1961).
Số phận đưa đẩy, sau vài tháng, bộ phim được chờ đợi không triển khai được, Thu Trang xin vào học École pratique des Hautes Études: Section des Sciences historiques et philologiques -Trường Cao học về lịch sử và ngữ văn - thuộc trường Sorbonne lâu đời và rất nổi tiếng của nước Pháp. Trong tâm trạng bùi ngùi nhớ quê, sau những buổi học, chị một mình dạo bước dưới bóng tháp chuông nhà thờ Đức Bà Paris, men theo bờ kè sông Seine quấn đầy dây lá thường xuân màu vàng soi bóng trên dòng nước xanh đậm thản nhiên trôi chậm về biển Manche. Xa xôi mới có trang thơ/ Ngẩn ngơ niềm nọ, vương tơ nỗi này/ Paris mưa tuyết gió bay/ Hay đâu tâm sự những ngày xưa sau/ Ánh trăng tan đã phai màu/ Xuân xanh còn độ ngàn sau còn dài (thơ Thu Trang, 1962). Chị ngỡ ngàng, xa lạ trước cuộc sống mới, nhưng phải hòa nhập để sống.
Số tiền dành dụm mang theo từ Việt Nam ngày càng cạn kiệt, Thu Trang phải vừa đi học vừa tìm việc làm thêm. Nhờ đã học và biết rành cả Anh ngữ từ khi còn ở Sài Gòn, Thu Trang kiếm được lúc thì một chân thông dịch tiếng Anh và tiếp khách ở một mỹ viện sang trọng ngay trên đại lộ Champs Élysées, lúc theo một đoàn làm phim về vùng Camargue miền duyên hải phía Tây nước Pháp làm công việc phụ diễn, lúc lại làm gia sư dạy tiếng Anh cho hai đứa trẻ 11 và 13 tuổi, con một bà chủ tiệm bán hoa tươi trong khu la-tinh gần trường và chính tại đây, chị đã tiếp cận và sớm thân thiết với một nhóm sinh viên khuynh tả, rất quan tâm và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Và một sinh viên y khoa trong nhóm, sau này là giáo sư, tiến sĩ khoa học đã trở thành người bạn đời tâm đầu ý hợp của chị.
Kiên trì khắc phục khó khăn, thâm nhập cuộc sống với những nét văn minh và phong tục khác lạ, Thu Trang tốt nghiệp cao học năm 1967. Cũng từ những năm này, chị bắt đầu tham gia tích cực và trở thành hạt nhân trong phong trào Việt kiều. Và sau những nỗ lực phi thường, năm 1978, chị bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Paris VII với đề tài Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp.
Chị trở thành nhà sử học VN ở nước ngoài, với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Paris 1917-1923, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000 (Bản tiếng Pháp, NXB Harmattan, Paris, 1992) và những tác phẩm nghiên cứu và phổ biến kiến thức về du lịch... Chị làm Tổng thư ký Hội Khoa học Xã hội ba khóa liên tiếp và hiện là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp.
Và những kỷ niệm.
Tấm lòng yêu nước chân thành và bền bỉ thôi thúc suốt hơn nửa thế kỷ, từ tuổi trẻ sôi động lúc còn ở trong nước cho đến khi hoạt động không ngừng nghỉ ở nước ngoài, Thu Trang đã gặp gỡ, quen biết rất nhiều người thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, xã hội, nghệ thuật khác nhau. Chị đã có những lần gặp riêng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi ở một căn phòng nhỏ trong Phủ Chủ tịch, khi đi dạo trong vườn cùng Thủ tướng và người con trai của ông. Chị có mối quan hệ đặc biệt, nhiều kỷ niệm vui buồn sâu sắc từ đầu thập niên 1950 đến giữa thập niên 1980, với luật sư, sau này là Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ.
Mới đây, trong một buổi đãi cơm đồng chí Nguyễn Thị Bình từ Việt Nam qua và GS Lê Thành Khôi, tại căn nhà của mình, số 9 đường Pasteur, Montrouge, Bắc Paris, chị Thu Trang báo tin, chị mới hoàn tất bản thảo tập hồi ký Một thời để nhớ khoảng 500 trang. Hy vọng chúng ta sớm được đọc những trang viết về cuộc đời sinh động của người phụ nữ tài danh này. (*)
Chị là người quảng giao, quen biết nhiều với văn nghệ sĩ, như nhà văn Phạm Văn Ký, người được giải văn chương của Académie Francaise (Viện Hàn lâm Pháp) năm 1961 với tiểu thuyết Perdre la demeure – Mất nơi ở; học giả Nguyễn Hiến Lê, nhà văn Vũ Hạnh, Đoàn Thêm... Thi sĩ Bùi Giáng là người để lại ở Thu Trang ấn tượng khó quên.
Chị kể: Hồi tôi chuẩn bị đi Pháp, Bùi Giáng mấy lần tới nhà. Một chiều mưa dầm, không khí ẩm lạnh, cả nhà đang sửa soạn ăn tối. Anh gõ cửa khá mạnh làm mọi người giật mình. Anh bước vào ngồi phịch xuống ghế, mặt buồn bã như người bệnh. Tôi pha ấm trà nóng mời anh. Anh im lặng thật lâu rồi hỏi: Cô sắp đi Pháp? Bao giờ về? Đi chơi à? Tôi hơi ngạc nhiên vì kiểu nói nhát gừng của anh. Im lặng thật lâu rồi anh cúi xuống nhặt đôi dép màu xanh lá mạ của tôi đi trong nhà cạnh đó, lẳng lặng mở tờ báo gói đôi dép. Rồi anh đứng lên: Tôi về. Trời vẫn đang mưa, tôi giơ tay định cản. Anh im lặng không lời từ giã, đi ra cửa.
Đó là lần cuối cùng Thu Trang gặp thi sĩ Bùi Giáng. 24 năm sau, nhà phê bình văn học Đặng Tiến từ VN trở lại Pháp đem sang cho chị (anh nói do một bạn ở nhóm Bách Khoa gửi) một đôi guốc kiểu xưa bằng gỗ có chạm hai bên bốn câu Kiều bằng chữ Nôm và quốc ngữ: Phòng văn lạnh ngắt như đồng/ Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan/ Mành tương phơ phất gió đàn/ Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Theo Việt Báo
Cuộc thi hoa hậu này có hơn 30 thí sinh trong buổi thi chính thức là những người đẹp đã lọt qua vòng sơ tuyển qua hồ sơ lý lịch và ảnh gửi trước cho ban tổ chức. Không có phần thi áo tắm nhưng vẫn hấp dẫn. Nội dung cuộc thi không có phần mặc áo tắm nhưng bộ phận chuyên môn của ban giám khảo có đo các chỉ số chiều cao, thể trọng và số đo ba vòng. Sau này, khi nhớ lại, những người đẹp dự thi hoa hậu năm ấy kể rằng nếu cuộc thi bắt buộc phải mặc áo tắm thì chắc chẳng ai dám thi, kể cả những cô vẫn thường mặc đồ tắm đi bãi biển nhiều lần rồi.
Đây là lần đầu tiên Sài Gòn có cuộc thi sắc đẹp do Bộ Thông tin và Bộ Xã hội, chính quyền miền Nam tổ chức nhân dịp lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng. Ban tổ chức bao gồm cả một số nhân sĩ và nhà báo. Số tiền bán vé vào cửa được thông báo là ủng hộ Ủy ban Chẩn tế Xã hội, một cơ quan từ thiện hồi đó.
Kết quả cuộc thi: Á hậu thứ hai là sinh viên Ngô Yên Thu, người Cần Thơ; thứ nhất là Nguyễn Thị Ninh, sinh viên người Hà Nội mới vào Nam. Người vinh dự nhận vòng nguyệt quế là nhà báo Thu Trang, 23 tuổi, cao 1,61 m, nặng 53 kg, số đo ba vòng 86-62-88. Xin nhớ lại, ở thập niên 1950, ngay các ngôi sao điện ảnh và người đẹp nổi tiếng trên thế giới cũng vẫn còn có chiều cao vừa phải, chỉ 1,6 m hoặc hơn một chút (như Elizabeth Taylor, Audrey Hepburn, Odile Versois...).
Khi tên hoa hậu được tuyên đọc, hội trường vang dậy tiếng vỗ tay, sân khấu tràn ngập mấy chục nhiếp ảnh gia, quay phim và nhà báo. Ca sĩ đang rất nổi tiếng dạo đó là Tâm Vấn cũng đại diện khán giả nữ lên sân khấu chúc mừng. Ra khỏi rạp Lido, sau khi thỏa mãn rừng người xin chữ ký và xin chụp ảnh chung, hoa hậu được mời lên xe hơi mui trần màu xanh bóng loáng nước sơn mới để đi diễu hành trong khoảng hai tiếng đồng hồ qua các đường phố chính của TP.
Hoa hậu Thu Trang là ai?
Sau ngày 30-4-1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thu hồi tòa Đại sứ Sài Gòn tại Paris. Đại sứ Phạm Văn Ba đọc được trong hồ sơ giấy tờ có ghi: Công Thị Nghĩa tức nữ diễn viên màn bạc Thu Trang là Việt Minh, Việt Cộng nằm vùng...
Vâng, Thu Trang là bút danh chính (cùng các bút danh khác như Thanh Tâm, Nguyễn Huyền Thu...) của nhà báo Công Thị Nghĩa khi chị bắt đầu viết bài trên tờ Cần Học đầu năm 1954 và sau đó trên các báo Sài Gòn Mới, Tân Văn, viết truyện ngắn trên Phụ nữ Diễn đàn, viết feuilleton (truyện nhiều kỳ) trên Lẽ Sống... Còn “diễn viên màn bạc” là do trong hai năm 1956 và 1957, Thu Trang tham gia diễn xuất hai phim của nền điện ảnh non trẻ, trong đó ở phim Lục Vân Tiên, ngoài việc đảm nhận vai nữ chính Kiều Nguyệt Nga, chị còn lãnh việc lồng tiếng cho tất cả các vai nữ trong phim (vì thâu tiếng tại Nhật, không có kinh phí cho nhiều người đi). Đây là phim truyện màu đầu tiên của Việt Nam, cũng là phim VN đầu tiên tham dự Đại hội Điện ảnh châu Á tại Tokyo.
Nhưng tại sao Thu Trang lại là Việt Minh, Việt Cộng, hơn nữa lại được ghi trong hồ sơ của sứ quán chính quyền Sài Gòn tại Pháp? Xin được tóm lược chuyện dài đó như sau:
Từ năm 1950-1951, trưởng thành từ phong trào học sinh sinh viên, Công Thị Nghĩa đã ở trong tổ công tác của Ban Tình báo đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định gồm bốn người do anh Năm Tú Trần Thanh Vân làm tổ trưởng, anh Hai Tắc Trần Kim Lang (hai anh là cán bộ chủ chốt ở TP.HCM sau ngày giải phóng) và liên lạc viên là chị Tư Ngà. Nghĩa trẻ nhất trong bốn người nên được mang bí danh là Tư (tên thật và theo thứ tự trong gia đình là Ba Nghĩa).
Thời gian đó, nhiều lần Nghĩa bí mật theo liên lạc viên lên vùng Bến Cát, Tân Uyên dự huấn luyện về công tác nội thành. Giữa năm 1952, Nghĩa bị bắt, bị tra tấn ở bót Catinat, và bị giam chung với nhiều chính trị phạm (trong đó có các đồng chí Nguyễn Thị Châu Sa tức Nguyễn Thị Bình và Đỗ Duy Liên) ở khám Gia Định và khám lớn Sài Gòn. Nhờ sự bào chữa và can thiệp của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Công Thị Nghĩa được ra tù cuối năm 1953.
Trên đất Pháp
Năm 1960, với tư cách diễn viên điện ảnh, Thu Trang được Chánh văn phòng Bộ Thông tin chính quyền Sài Gòn giới thiệu làm việc với đoàn công tác của Đài Truyền hình Pháp và được họ mời sang Pháp tham gia diễn xuất trong một bộ phim dài đã có dự án cụ thể. Đầu tháng 11-1960, chị lên máy bay Air France qua Pháp trong tâm trạng ngổn ngang trăm bề Quê cha đất mẹ tôi ơi/ Giã từ tất cả quê người tôi đi/ Còn bao nhiêu độ xuân về?/ Có còn chăng chút đam mê tuổi vàng? (thơ Thu Trang, 1961).
Số phận đưa đẩy, sau vài tháng, bộ phim được chờ đợi không triển khai được, Thu Trang xin vào học École pratique des Hautes Études: Section des Sciences historiques et philologiques -Trường Cao học về lịch sử và ngữ văn - thuộc trường Sorbonne lâu đời và rất nổi tiếng của nước Pháp. Trong tâm trạng bùi ngùi nhớ quê, sau những buổi học, chị một mình dạo bước dưới bóng tháp chuông nhà thờ Đức Bà Paris, men theo bờ kè sông Seine quấn đầy dây lá thường xuân màu vàng soi bóng trên dòng nước xanh đậm thản nhiên trôi chậm về biển Manche. Xa xôi mới có trang thơ/ Ngẩn ngơ niềm nọ, vương tơ nỗi này/ Paris mưa tuyết gió bay/ Hay đâu tâm sự những ngày xưa sau/ Ánh trăng tan đã phai màu/ Xuân xanh còn độ ngàn sau còn dài (thơ Thu Trang, 1962). Chị ngỡ ngàng, xa lạ trước cuộc sống mới, nhưng phải hòa nhập để sống.
Số tiền dành dụm mang theo từ Việt Nam ngày càng cạn kiệt, Thu Trang phải vừa đi học vừa tìm việc làm thêm. Nhờ đã học và biết rành cả Anh ngữ từ khi còn ở Sài Gòn, Thu Trang kiếm được lúc thì một chân thông dịch tiếng Anh và tiếp khách ở một mỹ viện sang trọng ngay trên đại lộ Champs Élysées, lúc theo một đoàn làm phim về vùng Camargue miền duyên hải phía Tây nước Pháp làm công việc phụ diễn, lúc lại làm gia sư dạy tiếng Anh cho hai đứa trẻ 11 và 13 tuổi, con một bà chủ tiệm bán hoa tươi trong khu la-tinh gần trường và chính tại đây, chị đã tiếp cận và sớm thân thiết với một nhóm sinh viên khuynh tả, rất quan tâm và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Và một sinh viên y khoa trong nhóm, sau này là giáo sư, tiến sĩ khoa học đã trở thành người bạn đời tâm đầu ý hợp của chị.
Kiên trì khắc phục khó khăn, thâm nhập cuộc sống với những nét văn minh và phong tục khác lạ, Thu Trang tốt nghiệp cao học năm 1967. Cũng từ những năm này, chị bắt đầu tham gia tích cực và trở thành hạt nhân trong phong trào Việt kiều. Và sau những nỗ lực phi thường, năm 1978, chị bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Paris VII với đề tài Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp.
Chị trở thành nhà sử học VN ở nước ngoài, với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Paris 1917-1923, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000 (Bản tiếng Pháp, NXB Harmattan, Paris, 1992) và những tác phẩm nghiên cứu và phổ biến kiến thức về du lịch... Chị làm Tổng thư ký Hội Khoa học Xã hội ba khóa liên tiếp và hiện là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp.
Và những kỷ niệm.
Tấm lòng yêu nước chân thành và bền bỉ thôi thúc suốt hơn nửa thế kỷ, từ tuổi trẻ sôi động lúc còn ở trong nước cho đến khi hoạt động không ngừng nghỉ ở nước ngoài, Thu Trang đã gặp gỡ, quen biết rất nhiều người thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, xã hội, nghệ thuật khác nhau. Chị đã có những lần gặp riêng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi ở một căn phòng nhỏ trong Phủ Chủ tịch, khi đi dạo trong vườn cùng Thủ tướng và người con trai của ông. Chị có mối quan hệ đặc biệt, nhiều kỷ niệm vui buồn sâu sắc từ đầu thập niên 1950 đến giữa thập niên 1980, với luật sư, sau này là Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ.
Mới đây, trong một buổi đãi cơm đồng chí Nguyễn Thị Bình từ Việt Nam qua và GS Lê Thành Khôi, tại căn nhà của mình, số 9 đường Pasteur, Montrouge, Bắc Paris, chị Thu Trang báo tin, chị mới hoàn tất bản thảo tập hồi ký Một thời để nhớ khoảng 500 trang. Hy vọng chúng ta sớm được đọc những trang viết về cuộc đời sinh động của người phụ nữ tài danh này. (*)
Chị là người quảng giao, quen biết nhiều với văn nghệ sĩ, như nhà văn Phạm Văn Ký, người được giải văn chương của Académie Francaise (Viện Hàn lâm Pháp) năm 1961 với tiểu thuyết Perdre la demeure – Mất nơi ở; học giả Nguyễn Hiến Lê, nhà văn Vũ Hạnh, Đoàn Thêm... Thi sĩ Bùi Giáng là người để lại ở Thu Trang ấn tượng khó quên.
Chị kể: Hồi tôi chuẩn bị đi Pháp, Bùi Giáng mấy lần tới nhà. Một chiều mưa dầm, không khí ẩm lạnh, cả nhà đang sửa soạn ăn tối. Anh gõ cửa khá mạnh làm mọi người giật mình. Anh bước vào ngồi phịch xuống ghế, mặt buồn bã như người bệnh. Tôi pha ấm trà nóng mời anh. Anh im lặng thật lâu rồi hỏi: Cô sắp đi Pháp? Bao giờ về? Đi chơi à? Tôi hơi ngạc nhiên vì kiểu nói nhát gừng của anh. Im lặng thật lâu rồi anh cúi xuống nhặt đôi dép màu xanh lá mạ của tôi đi trong nhà cạnh đó, lẳng lặng mở tờ báo gói đôi dép. Rồi anh đứng lên: Tôi về. Trời vẫn đang mưa, tôi giơ tay định cản. Anh im lặng không lời từ giã, đi ra cửa.
Đó là lần cuối cùng Thu Trang gặp thi sĩ Bùi Giáng. 24 năm sau, nhà phê bình văn học Đặng Tiến từ VN trở lại Pháp đem sang cho chị (anh nói do một bạn ở nhóm Bách Khoa gửi) một đôi guốc kiểu xưa bằng gỗ có chạm hai bên bốn câu Kiều bằng chữ Nôm và quốc ngữ: Phòng văn lạnh ngắt như đồng/ Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan/ Mành tương phơ phất gió đàn/ Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Theo Việt Báo